Về chủng loại nhập khẩu:
Trong kỳ này, khô đậu tương là mặt hàng đạt lượng nhập khẩu lớn nhất với 42 nghìn tấn, giá nhập khẩu trung bình 644 USD/tấn, tăng 44 USD/tấn so với kỳ trước. Achentina là thị trường cung cấp lớn nhất, đạt 41,1 nghìn tấn, với giá nhập khẩu trung bình 646 USD/tấn, tăng 62 USD/tấn so với kỳ trước. Nhập khẩu từ Braxin đạt 1 nghìn tấn, với giá nhập khẩu trung bình 582 USD/tấn, giảm 23 USD/tấn so với kỳ trước.
DDGS là mặt hàng có lượng nhập khẩu lớn thứ 2, đạt 23,4 nghìn tấn, giá nhập khẩu bình quân đạt 391 USD/tấn, giảm 3 USD/tấn so với kỳ trước. Mỹ là thị trường cung cấp lớn nhất, đạt 19,3 nghìn tấn, với giá trung bình 395 USD/tấn, giảm 8 USD/tấn so với kỳ trước. Canada là thị trường cung cấp lớn thứ 2, đạt 2,1 nghìn tấn, với giá nhập khẩu trung bình 375 USD/tấn, giảm 2 USD/tấn so với kỳ trước.
Khô dầu cọ là mặt hàng có lượng nhập khẩu lớn thứ 3, đạt 18,4 nghìn tấn, giá nhập khẩu bình quân đạt 167 USD/tấn, giảm 32 USD/tấn với kỳ trước. Indonesia là thị trường cung cấp lớn nhất, đạt gần 18,1 nghìn tấn, với giá trung bình 168 USD/tấn, giảm 31 USD/tấn so với kỳ trước.
Giá nhập khẩu trung bình một số chủng loại TACN&NL như sau: Bột thịt xương đạt 591 USD/tấn, giảm 12 USD/tấn; Cám gạo có giá 252 USD/tấn, giảm 51 USD/tấn; Cám mỳ có giá bình quân là 288 USD/tấn, tương đương với kỳ trước; Giá bột cá đạt 1.554 USD/tấn, giảm 76 USD/tấn; Giá bột lông vũ đạt 840 USD/tấn, giảm 27 USD/tấn; Giá bột gia cầm là 1.010 USD/tấn, giảm 28 USD/tấn; Khô dầu hạt cải đạt 333 USD/tấn, tăng 14 USD/tấn so với kỳ trước…