Cây đặc sản: Tạo sinh kế bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số
Việc phát triển vùng sản xuất cây ăn quả đặc sản đang mở ra hướng đi bền vững, giúp bà con dân tộc thiểu số của Thái Nguyên nâng cao thu nhập và giảm nghèo.
Trái ngọt từ vùng cao
Thái Nguyên có lợi thế về khí hậu, đất đai phù hợp cho nhiều loại cây ăn quả đặc sản. Hiện diện tích cây ăn quả toàn tỉnh đạt khoảng 14.000 ha, trong đó riêng khu vực phía Bắc của tỉnh có khoảng 5.600 ha, tập trung các loại cam, quýt, lê, đào, mơ, hồng giòn, dẻ ván… Mỗi mùa một loại quả, bà con có thu nhập quanh năm thay vì chỉ trông vào một vụ như trước đây.
Na được mệnh danh là "đặc sản" của xẫ Võ Nhai, mang lại thu nhập cao cho bà con ở địa phương. Ảnh minh hoạ
Bà Hoàng Thị Lan (xã Bạch Thông) chia sẻ, trồng xen canh mơ, cam, quýt và hồng giúp gia đình có nguồn thu đều đặn. Nhờ đó, cuộc sống ổn định hơn, con cái được học hành đầy đủ. Không chỉ là câu chuyện của riêng bà Lan, đây là thực tế ở nhiều hộ nông dân, khi nông sản đã trở thành sinh kế vững vàng.
Sự phát triển này còn gắn liền với chương trình OCOP. Đến nay, khu vực phía Bắc của tỉnh đã có 245 sản phẩm OCOP từ 3 sao trở lên, trong đó có 4 sản phẩm đạt 5 sao. Hồng Na Rì, chuối sấy dẻo của Hợp tác xã Hoàng Huynh, bí xanh thơm Ba Bể… là những ví dụ điển hình. Một số sản phẩm đã vươn vào hệ thống siêu thị, cửa hàng hiện đại tại nhiều đô thị lớn.
Một điểm sáng đáng chú ý là cây mơ. Nếu như năm 2020 toàn tỉnh chỉ có 600 ha, thì nay diện tích đã tăng lên gần 750 ha, nhờ sự đồng hành của doanh nghiệp trong bao tiêu và chế biến sâu. Ông Hoàng Văn Lâm (xã Chợ Mới) cho biết, trước đây bán mơ tươi chỉ được vài nghìn đồng/kg. Nay hợp tác với doanh nghiệp, giá thu mua lên tới 25.000 đồng/kg. Người dân chúng tôi phấn khởi, chăm sóc vườn tốt hơn.
Những con số ấy cho thấy, khi có liên kết sản xuất và thị trường ổn định, bà con hoàn toàn có thể thoát nghèo từ chính nông sản quê hương.
Đòn bẩy để cây đặc sản vươn xa
Bên cạnh lợi thế về khí hậu, điều làm nên “thương hiệu trái ngọt” Thái Nguyên là sự tham gia của hợp tác xã và doanh nghiệp. Hợp tác xã được xem như hạt nhân tổ chức sản xuất, liên kết nông dân và mở đường cho sản phẩm đến với thị trường.
Sau nhiều năm bén rễ trên đất Thái Nguyên, cây dẻ ván đã cho thu nhập tốt, giúp tạo sinh kế ổn định cho người dân. Ảnh minh hoạ
Bà Bàn Thị Ngân, Giám đốc Hợp tác xã Hợp Phát (xã Ngân Sơn) cho hay, khi đưa cây dẻ ván từ Lạng Sơn về trồng năm 2006, nhiều người nghi ngại. Nhưng nay dẻ ván đã bén rễ, cho thu nhập ổn định. Hợp tác xã cùng bà con xây dựng thương hiệu, tìm đầu ra lâu dài. Hiện, hợp tác xã đang phát triển mô hình hơn 300 ha đào, lê, dẻ, gắn sản xuất với trải nghiệm du lịch cộng đồng, tạo thêm nguồn thu từ dịch vụ.
Ở Na Rì, Hợp tác xã Cộng Lực đã mạnh dạn đưa giống hồng LT1 vào canh tác, xây dựng 19 cây đầu dòng để nhân giống. Hai sản phẩm từ giống này đạt chuẩn OCOP 3 sao, trở thành niềm tự hào địa phương. Tại Bạch Thông, Hợp tác xã Phiêng An lại hướng tới phát triển vườn trải nghiệm: du khách vừa được thưởng thức trái chín, vừa tìm hiểu quy trình chăm sóc.
Song song với hợp tác xã, doanh nghiệp cũng đang đóng vai trò quan trọng. Công ty TNHH Hà Diệp hiện có hơn 200 sản phẩm OCOP, nhiều trong số đó gắn với cây đặc sản địa phương. Bà Hà Minh Đợi, Giám đốc công ty, nhấn mạnh, OCOP là cơ sở để doanh nghiệp xây dựng thương hiệu, đầu tư chế biến sâu, nâng cao giá trị nông sản.
Tuy nhiên, khó khăn vẫn còn đó khi sản xuất còn manh mún, sâu bệnh ảnh hưởng chất lượng quả, khâu sơ chế, bảo quản chưa đáp ứng nhu cầu thị trường, dẫn đến tình trạng “được mùa mất giá”. Để khắc phục, tỉnh Thái Nguyên đã và đang triển khai nhiều chính sách, như: Hỗ trợ trồng mới 280 ha cây ăn quả chủ lực trong năm 2025; khuyến khích áp dụng VietGAP, hữu cơ; đầu tư công nghệ bảo quản, chế biến; thúc đẩy xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm trên nền tảng số.
Theo ông Hà Ngọc Việt, Chủ tịch UBND xã Bạch Thông, nếu chỉ trồng để bán quả tươi thì giá trị không cao. Khi kết hợp với du lịch trải nghiệm, gắn với OCOP, sản phẩm được nâng tầm, giá bán tốt hơn. Mục tiêu là xây dựng thương hiệu cây ăn quả đặc sản, hướng tới xuất khẩu.
Chè Thái Nguyên đã nổi tiếng cả nước. Ảnh minh hoạ
Thái Nguyên xác định phát triển cây ăn quả đặc sản không chỉ để nâng thu nhập, mà còn tạo sinh kế dài lâu cho đồng bào dân tộc thiểu số. Tại xã Thượng Minh, giống lúa nếp Tài đặc sản đã được Hợp tác xã Yến Dương phối hợp với viện nghiên cứu phục tráng, mở rộng diện tích hơn 30 ha, trở thành thương hiệu tập thể, gắn mã truy xuất nguồn gốc. Người dân yên tâm sản xuất vì “lúa làm ra đến đâu bán hết đến đó”.
Ở Võ Nhai, những vườn na trĩu quả trải dài trên triền núi đá vôi đã giúp bà con có thu nhập ổn định, nhiều hộ đạt 300-400 triệu đồng/năm. Hay như cây chè Shan tuyết cổ thụ ở Đồng Phúc được ví như “báu vật xanh” hàng trăm năm tuổi đang được địa phương đề xuất bảo hộ chỉ dẫn địa lý, gắn bảo tồn với phát triển du lịch sinh thái.
Các chính sách hỗ trợ mới ban hành càng tiếp thêm động lực. Cuối tháng 7/2025, tỉnh công bố mức hỗ trợ 3-15 triệu đồng/ha cho vùng trồng bị thiệt hại do thiên tai, đồng thời đầu tư hơn 500 tỷ đồng để phát triển cây chè và sản phẩm trà theo hướng hữu cơ, VietGAP. Cùng với việc xây dựng thương hiệu, xúc tiến thương mại, chính quyền kỳ vọng tổng giá trị sản phẩm từ cây chè đạt 25.000 tỷ đồng vào năm 2030.
Rõ ràng, với định hướng đúng đắn, sự vào cuộc đồng bộ của chính quyền, hợp tác xã và doanh nghiệp, vùng cây ăn quả đặc sản Thái Nguyên đang trở thành động lực quan trọng cho kinh tế nông thôn. Trên nền tảng ấy, đồng bào dân tộc thiểu số không chỉ thoát nghèo mà còn có cơ hội làm giàu, góp phần gìn giữ và lan tỏa giá trị văn hóa, sinh thái của quê hương.
Nhiều vùng cây đặc sản đã và đang được hình thành trên vùng đất Thái Nguyên. Nhờ kỹ thuật trồng dải vụ, cùng nỗ lực thúc đẩy tiêu thụ của tỉnh, cây đặc sản đang giúp người dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh thoát nghèo.