Tiêu điểm
Thứ tư, 13/08/2025 - 19:55
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Nâng giá trị quả mắc ca, tăng thu nhập cho bà con dân tộc thiểu số

Với giá trị thương mại cao và tiêu dùng tăng, quả mắc ca đang mở ra hướng thoát nghèo cho nhiều hộ dân tộc thiểu số trên địa bàn các tỉnh khu vực Tây Bắc và Tây Nguyên.

Hiệu quả bước đầu từ những vườn mắc ca VietGAP

Tại Diễn đàn khuyến nông chủ đề “Sản xuất mắc-ca đạt tiêu chuẩn VietGAP gắn với liên kết tiêu thụ sản phẩm” do Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với Sở Nông nghiệp và Môi trường Lâm Đồng tổ chức ngày 11/8, các diễn giả nhấn mạnh hiệu quả phát triển kinh tế cho bà con dân tộc thiểu số khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên từ quả mắc ca.

Theo thống kê, tính đến cuối năm 2024, cả nước có hơn 46.000 ha mắc ca, tập trung chủ yếu ở Tây Nguyên và Tây Bắc. Riêng Lâm Đồng đã đạt gần 16.000 ha, trong đó 80% diện tích trồng xen canh trong vườn cây công nghiệp. Với năng suất bình quân 1,0-1,5 tấn hạt khô/ha, một số vùng thâm canh tốt đạt trên 3 tấn/ha, mắc ca đang trở thành nguồn thu nhập quan trọng cho người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số.

Diễn đàn khuyến nông chủ đề “Sản xuất mắc ca đạt tiêu chuẩn VietGAP gắn với liên kết tiêu thụ sản phẩm”. Ảnh: Nhandan

Diễn đàn khuyến nông chủ đề “Sản xuất mắc ca đạt tiêu chuẩn VietGAP gắn với liên kết tiêu thụ sản phẩm”. Ảnh: Nhandan

Một trong những bước tiến đáng kể trong trồng mắc ca là việc áp dụng tiêu chuẩn VietGAP vào sản xuất. Tại Lâm Đồng, hơn 140 hộ dân tham gia dự án “Xây dựng mô hình thâm canh mắc ca theo tiêu chuẩn VietGAP gắn với liên kết tiêu thụ” do Trung tâm Khuyến nông Quốc gia triển khai, với quy mô khoảng 70 ha. Mục tiêu là hình thành vùng nguyên liệu đạt chuẩn, có truy xuất nguồn gốc, được doanh nghiệp bao tiêu, tạo chuỗi giá trị bền vững và thân thiện môi trường.

Kết quả cho thấy, việc sản xuất theo VietGAP giúp giá bán mắc ca tăng từ 10-20% so với sản xuất thông thường. Không chỉ giá trị gia tăng, mô hình này còn giúp người dân thay đổi tập quán canh tác, áp dụng đồng bộ kỹ thuật như trồng hàng đôi, tưới tiết kiệm, bón phân cân đối, quản lý dịch hại tổng hợp. Những tiến bộ này không chỉ nâng năng suất, chất lượng mà còn góp phần bảo vệ môi trường và sức khỏe cộng đồng.

Còn nhiều khoảng trống thị trường

Thị trường tiêu thụ mắc ca trong nước vẫn còn dư địa lớn, song sản phẩm nội địa chưa đủ sức cạnh tranh về sản lượng, chất lượng và giá thành. Năm 2024, Việt Nam xuất khẩu khoảng 600 tấn nhân mắc ca nhưng cũng phải nhập khẩu 3.500-4.000 tấn hạt thô từ Nam Phi, Úc, Kenya để chế biến và tiêu dùng nội địa. Điều này phản ánh sản xuất trong nước chưa đáp ứng nhu cầu, cả về số lượng và tiêu chuẩn chất lượng.

Mặt khác, sản xuất còn nhỏ lẻ, manh mún khi phần lớn diện tích mắc ca hiện do hộ dân tự trồng, phân tán, chưa hình thành vùng nguyên liệu tập trung. Việc này gây khó khăn cho áp dụng đồng bộ quy trình kỹ thuật, giám sát chất lượng và tổ chức liên kết sản xuất. Nhiều hộ vẫn thiếu vốn đầu tư, thiếu kiến thức về thị trường và kỹ thuật chế biến sâu.

Còn nhiều dư địa thị trường cho quả mắc ca phát triển. Ảnh minh họa

Còn nhiều dư địa thị trường cho quả mắc ca phát triển. Ảnh minh họa

Theo ông Nguyễn Huy Thuấn, Phó Trưởng phòng Khuyến nông Trồng trọt và Lâm nghiệp (Trung tâm Khuyến nông Quốc gia), hiện chưa hình thành các tổ hợp tác hoặc hợp tác xã quy mô lớn để tổ chức sản xuất, tiêu thụ mắc ca một cách bài bản. Khâu chế biến, tiêu thụ cũng chưa ổn định, các tỉnh trọng điểm chưa có cơ sở chế biến sâu, dẫn đến giá bán bấp bênh và phụ thuộc nhiều vào thương lái.

Bên cạnh đó, liên kết chuỗi giá trị chưa bền vững. Ông Lê Quốc Thanh, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, cho rằng “nếu không tổ chức sản xuất theo chuỗi, sản phẩm mắc ca sẽ khó tránh khỏi tình trạng bị ép giá”. Sự rời rạc giữa các khâu từ trồng, thu hoạch, sơ chế đến tiêu thụ khiến năng lực cạnh tranh của mắc ca Việt Nam còn hạn chế.

Giải pháp nâng cao giá trị và mở rộng thị trường

Để mắc ca thực sự trở thành cây làm giàu và góp phần giảm nghèo bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số, thoe các chuyên gia, cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp.

Trước hết, phải quy hoạch và hình thành các vùng nguyên liệu tập trung, đủ lớn để áp dụng kỹ thuật tiên tiến, đồng thời thuận tiện cho việc thu mua, chế biến. Điều này đòi hỏi sự vào cuộc của chính quyền địa phương trong bố trí quỹ đất, hỗ trợ hạ tầng giao thông và thủy lợi.

Chế biến sâu mang lại giá trị cao hơn cho quả mắc ca. Ảnh minh họa

Chế biến sâu mang lại giá trị cao hơn cho quả mắc ca. Ảnh minh họa

Thứ hai, mở rộng mô hình sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, hữu cơ, kết hợp truy xuất nguồn gốc. Khi sản phẩm đạt tiêu chuẩn, không chỉ dễ dàng vào hệ thống siêu thị, cửa hàng đặc sản trong nước mà còn thuận lợi hơn trong xuất khẩu, đặc biệt vào các thị trường khó tính.

Thứ ba, cần xây dựng và củng cố hợp tác xã, tổ hợp tác để làm cầu nối giữa nông dân và doanh nghiệp. Mô hình liên kết này giúp nông dân yên tâm đầu tư, doanh nghiệp có nguồn nguyên liệu ổn định và chất lượng đồng đều.

Thứ tư, đầu tư mạnh hơn vào chế biến sâu. Sản phẩm nhân mắc ca rang, tẩm gia vị, bột mắc ca… không chỉ nâng giá trị gấp nhiều lần so với hạt thô, mà còn giúp kéo dài thời gian bảo quản, mở rộng thị trường tiêu thụ. Khuyến khích doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư nhà máy chế biến tại các vùng nguyên liệu sẽ giảm chi phí vận chuyển, tạo thêm việc làm cho lao động địa phương.

Thứ năm, tăng cường xúc tiến thương mại và xây dựng thương hiệu mắc ca Việt Nam. Thông qua hội chợ, triển lãm, kênh thương mại điện tử và truyền thông số, sản phẩm có thể tiếp cận nhiều hơn với người tiêu dùng trong nước và quốc tế. Song song, cần đẩy mạnh quảng bá giá trị dinh dưỡng, công dụng của mắc ca để kích thích tiêu dùng.

Cuối cùng, hỗ trợ tiếp cận vốn tín dụng ưu đãi và đào tạo kỹ thuật cho nông dân là yếu tố then chốt. Khi có vốn, người dân mới mạnh dạn đầu tư giống chất lượng cao, hệ thống tưới tiết kiệm và các thiết bị sơ chế hiện đại.

Với tiềm năng đất đai, khí hậu, cùng nhu cầu tiêu thụ trong và ngoài nước ngày càng tăng, mắc ca hoàn toàn có thể trở thành cây trồng chiến lược ở nhiều địa phương miền núi. Vấn đề là phải tổ chức sản xuất theo hướng tập trung, gắn với chế biến sâu và liên kết chuỗi giá trị bền vững.

Nếu những giải pháp trên được triển khai đồng bộ, cây mắc ca sẽ không chỉ giúp hàng chục nghìn hộ đồng bào dân tộc thiểu số có thêm nguồn thu nhập ổn định, mà còn góp phần vào mục tiêu giảm nghèo bền vững, nâng tầm vị thế nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Với giá trị kinh tế cao, nhu cầu tiêu dùng lớn, quả mắc ca và sản phẩm từ quả mắc ca đã và đang góp phần giúp đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn các tỉnh Tây Bắc và Tây Nguyên thoát nghèo, thậm chí làm giàu bền vững.


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Bài viết liên quan
Đang chờ cập nhật