Nhiều chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư, sản xuất công nghệ cao
Dự thảo Luật Công nghệ cao (sửa đổi) đã quy định nhiều chính sách ưu đãi, hỗ trợ, thu hút với các hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực công nghệ cao.
Hình thành hệ sinh thái công nghệ cao
Sáng 31/10, tiếp tục Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, Quốc hội nghe Tờ trình và Thẩm tra dự án Luật Công nghệ cao (sửa đổi).

Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng.
Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng cho biết, việc đề xuất xây dựng Luật Công nghệ cao (sửa đổi) nhằm thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về việc hoàn thiện hành lang pháp lý thúc đẩy phát triển công nghệ cao phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2045 và hội nhập quốc tế trong tình hình mới.
Đồng thời, triển khai thực hiện chủ trương đẩy mạnh phân cấp, giao các thẩm quyền quản lý nhà nước cho các cấp chính quyền địa phương trong thúc đẩy phát triển công nghệ cao, nhất là khu công nghệ cao. Đảm bảo tính đồng bộ, minh bạch, khả thi và tránh chồng chéo với hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành và tháo gỡ vướng mắc, rào cản về phát triển công nghệ cao hiện nay.
Bố cục dự thảo Luật Công nghệ cao (sửa đổi) gồm 6 chương và 27 điều, giảm 8 điều và có sự thay đổi về cấu trúc, hình thức so với Luật Công nghệ cao hiện hành.
Dự thảo Luật Công nghệ cao (sửa đổi) bao gồm 6 nhóm chính sách: Hoàn thiện khái niệm và tiêu chí về công nghệ cao; thiết kế lại hệ thống các chính sách và đối tượng hưởng chính sách ưu tiên, ưu đãi, hỗ trợ đầu tư; khuyến khích phát triển hệ sinh thái công nghệ cao; bổ sung quy định về các mô hình khu công nghệ cao, đô thị công nghệ cao; bổ sung và hoàn thiện các quy định quản lý nhà nước về công nghệ cao, cơ chế quản lý, kiểm tra, giám sát và đánh giá hiệu quả; bổ sung các quy định về yêu cầu chuyển đổi số toàn diện hoạt động công nghệ cao.
Dự thảo Luật được thiết kế theo nguyên tắc đơn giản hóa thủ tục hành chính, tăng cường hậu kiểm, chuyển đổi số toàn diện trong công tác quản lý và hoạt động công nghệ cao. Thay đổi tư duy quản lý theo hướng quản lý hiệu quả, không quản lý quá trình. Thu hút nguồn đầu tư ngoài ngân sách nhà nước cho công nghệ cao thông qua việc khuyến khích doanh nghiệp đầu tư, tài trợ kinh phí cho nghiên cứu, phát triển công nghệ cao, công nghệ chiến lược, sản phẩm công nghệ cao, sản phẩm công nghệ chiến lược.
Tại dự thảo Luật đã hoàn thiện khái niệm và tiêu chí về công nghệ cao đảm bảo tính hiệu quả và cập nhật so với xu hướng công nghệ trên thế giới, phù hợp với bối cảnh, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng của Việt Nam.
Trong đó, hoàn thiện định nghĩa công nghệ cao, nhấn mạnh tính đột phá, lan tỏa và vai trò nền tảng của các ngành sản xuất, dịch vụ hiện đại (khoản 1 Điều 3). Hoàn thiện định nghĩa sản phẩm công nghệ cao, không chỉ là sản phẩm mà còn bao gồm dịch vụ được tạo ra từ công nghệ cao (khoản 4 Điều 3).
Sửa đổi một số quy định để hoàn thiện các chính sách nhằm phù hợp với hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành; khẳng định phát triển công nghệ cao, công nghệ chiến lược là đột phá chiến lược để phát triển nhanh, bền vững và bảo đảm tự chủ công nghệ quốc gia (Điều 4).
Đặc biệt, bổ sung các quy định khung để khuyến khích doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo có đầu tư vào công nghệ cao, công nghệ chiến lược; các viện nghiên cứu, trường đại học có hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) và thương mại hoá công nghệ để phát triển các doanh nghiệp công nghệ cao, công nghệ chiến lược để các doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp trong nước có thể tham gia (Điều 21, Điều 22, Điều 23).
Bổ sung các quy định về hình thành hệ sinh thái công nghệ cao như một trụ cột mới nhằm tạo môi trường thuận lợi, toàn diện cho đổi mới sáng tạo để các doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học, tổ chức khởi nghiệp và quỹ đầu tư có thể tham gia, liên kết trong chuỗi giá trị công nghệ cao (Điều 4, Điều 26).
Trong đó, khu công nghệ cao được xác định là vị trí trung tâm hệ sinh thái đổi mới, kết nối nhằm lan tỏa công nghệ cao, thúc đẩy hình thành mạng lưới theo chuỗi giá trị (Điều 25).
Nghiên cứu bổ sung quy định ưu đãi, hỗ trợ
Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Nguyễn Thanh Hải cho hay, dự thảo Luật Công nghệ cao (sửa đổi) đã quy định nhiều chính sách ưu đãi, hỗ trợ, thu hút và khuyến khích đối với các hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực công nghệ cao.

Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Nguyễn Thanh Hải.
Tuy nhiên, cần làm rõ hơn về nguồn lực bảo đảm cũng như cơ chế phối hợp giữa các cơ quan trong triển khai; cần quy định chỉ áp dụng các ưu đãi trong hoạt động sản xuất công nghệ cao trong thời gian doanh nghiệp đáp ứng các tiêu chí theo quy định.
Đối với các dự án công nghệ cao tại vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo... nghiên cứu bổ sung chính sách miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, hỗ trợ vay vốn lãi suất 0% cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng số, ưu tiên cấp đất cho khu công nghệ cao.
Về tiêu chí xác định công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển và công nghệ chiến lược (Điều 5), bà Nguyễn Thanh Hải đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp tục rà soát, bổ sung tiêu chí cụ thể mang tính định lượng (đóng góp giá trị gia tăng, số bằng sáng chế, tiêu chuẩn hạ tầng, trình độ nhân lực...) để đảm bảo tính khả thi, công bằng.
Đồng thời, bổ sung danh mục công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển, làm căn cứ xác định sản phẩm, dự án công nghệ cao được khuyến khích phát triển, được ưu tiên trong hoạt động chuyển giao công nghệ.
Về nghiên cứu và phát triển công nghệ cao, công nghệ chiến lược (Điều 11, 12), đề nghị nghiên cứu bổ sung quy định ưu đãi, hỗ trợ khi nghiên cứu, phát triển “công nghệ lõi”, “công nghệ mở” (khoản 3 Điều 11); được tài trợ, hỗ trợ kinh phí từ quỹ phát triển khoa học - công nghệ cho hoạt động nghiên cứu sáng tạo công nghệ cao (khoản 4, khoản 6 Điều 11).
Về chính sách hỗ trợ, ưu đãi trong thực hiện thử nghiệm và trình diễn công nghệ cao, công nghệ chiến lược (khoản 3 Điều 13), đề nghị nghiên cứu, bổ sung quy định về miễn trừ, giảm nhẹ trách nhiệm dân sự, hành chính đối với trường hợp thử nghiệm đúng quy trình nhưng gặp rủi ro từ những nguyên nhân khách quan.
Về phân loại doanh nghiệp công nghệ cao (khoản 2 Điều 16), dự thảo Luật quy định phân loại doanh nghiệp công nghệ cao ở 2 mức. Mức 1 là các doanh nghiệp công nghệ cao có nhà đầu tư trong nước chiếm tỷ lệ phần vốn góp hoặc tỷ lệ sở hữu cổ phần trên 30% và nhận chuyển giao công nghệ lõi ở mức “đổi mới và phát triển”; mức 2 là các doanh nghiệp công nghệ cao còn lại), từ đó xây dựng những chính sách ưu đãi, hỗ trợ khác nhau đối với các doanh nghiệp này.
Việc quy định như vậy có thể sẽ dẫn đến sự phân biệt giữa doanh nghiệp có vốn của nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Đồng thời, có thể ảnh hưởng tới chủ trương khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực này. Do vậy, đề nghị xem xét, sửa đổi quy định đảm bảo công bằng và hợp lý hơn.
Luật Công nghệ cao được ban hành năm 2008, là đạo luật đầu tiên và duy nhất điều chỉnh lĩnh vực này, nhưng nhiều quy định đã lỗi thời, thiếu đồng bộ, không còn phù hợp thực tiễn, trở thành rào cản phát triển. Từ đó đến nay, Luật chỉ được sửa đổi cục bộ vào các năm 2013, 2014, 2025, chưa có lần sửa đổi toàn diện. Trong bối cảnh pháp lý, kinh tế - xã hội thay đổi nhanh chóng, việc sửa đổi toàn diện Luật lần này vừa có cơ sở chính trị, pháp lý từ chỉ đạo của Trung ương, vừa xuất phát từ yêu cầu thực tiễn.
 
  

















